Mấy vấn đề trong thực hiện trong thực hiện Pháp lệnh Động viên công nghiệp tại các địa phương

5/23/2019 3:35:23 PM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 21

CNQP&KT - Sau hơn 15 năm thực hiện, Pháp lệnh Động viên công nghiệp (ĐVCN)đã đạt được một số kết quả nhất định, góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện nảy sinh không ít vấn đề bất cập, đòi hỏi phải được nghiên cứu, tổng kết, rút kinh nghiệm…

Ngày 25/2/2003, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Động viên công nghiệp (số 09/2003/PL-UBTVQH11) nhằm tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước (QLNN), đề cao trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân về ĐVCN và phát huy tinh thần yêu nước của nhân dân, góp phần đáp ứng nhu cầu sản xuất, sửa chữa vũ khí, trang bị kỹ thuật bảo đảm tốt cho nhiệm vụ QPAN. Hơn 15 năm qua, Pháp lệnh ĐVCN đã tăng cường được hiệu lực quản lý, nâng cao trách nhiệm của các doanh nghiệp trong lực lượng vũ trang (LLVT) và toàn dân trong chuẩn bị, xây dựng các doanh nghiệp công nghiệp (DNCN) dân sinh phục vụ nhiệm vụ ĐVCN, góp phần nâng cao tiềm lực quốc phòng; củng cố sức mạnh quân sự, sẵn sàng ứng phó có hiệu quả với các tình huống xảy ra.

Đối với việc thực hiện Pháp lệnh ĐVCN tại các địa phương đã đạt được một số kết quả sau:

Một là, nhận thức của các cơ quan, bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp về ĐVCN ngày càng đầy đủ hơn; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với đầu tư xây dựng các dây chuyền ĐVCN, tạo nguồn lực mọi mặt sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ khi có lệnh. Những năm qua, Chính phủ và các cơ quan, bộ, ngành Trung ương, địa phương đã quán triệt, tuyên truyền, phổ biến, ban hành hệ thống văn bản để triển khai, thực hiện Pháp lệnh một cách đồng bộ, hiệu quả. Việc quán triệt, tuyên truyền, giáo dục về vị trí, vai trò của Pháp lệnh; vai trò của huy động năng lực các DNCN trong ĐVCN, bồi dưỡng kiến thức QPAN cho cán bộ, đảng viên, công nhân viên chức lao động và quần chúng nhân dân được thực hiện tốt. Do đó, đã tạo được sự chuyển biến về nhận thức, tư tưởng, trách nhiệm và sự đồng thuận của các cấp, các ngành, địa phương, doanh nghiệp trong thực hiện Pháp lệnh. Đặc biệt là nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành, địa phương, doanh nghiệp, nhân dân và LLVT về nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Hai là, tiến hành khảo sát và lựa chọn những doanh nghiệp đủ điều kiện tham gia ĐVCN. Dựa trên cơ sở danh mục ĐVCN mà Chính phủ giao cho các bộ, các cơ quan trực thuộc Trung ương, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, tập đoàn, tổng công ty để khảo sát và lựa chọn doanh nghiệp ĐVCN. Trong đó, nhiều cơ quan, bộ, ngành và địa phương đã làm tốt công tác khảo sát các doanh nghiệp liên quan sản xuất, sửa chữa các loại trang, thiết bị phục vụ quốc phòng.

Đến nay, cả nước có 9 địa phương thực hiện tốt công tác ĐVCN. Nổi bật là tỉnh Đồng Nai đã tập trung rà soát, đưa vào quản lý những doanh nghiệp đủ điều kiện, khả năng sản xuất, sửa chữa trang, thiết bị phục vụ nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Với hơn 940 DNCN, tỉnh Nghệ An đã khảo sát và lựa chọn được 36 doanh nghiệp có đủ năng lực, thiết bị, đáp ứng được việc sản xuất, sửa chữa các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật phục vụ cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Tỉnh Quảng Trị cũng đã xác định được 5 doanh nghiệp đủ điều kiện về cơ sở vật chất, trình độ sản xuất bảo đảm cho ĐVCN. Thành phố Hồ Chí Minh lựa chọn được 78 doanh nghiệp có khả năng sản xuất, sửa chữa trang bị phục vụ nhiệm vụ quân sự, quốc phòng.


Hệ thống máy CNC phục vụ sản xuất của Công ty TNHH Cơ khí HTMP Việt Nam.     Ảnh: CTV


Ba là, các doanh nghiệp đã quan tâm đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng các dây chuyền ĐVCN với chất lượng ngày càng tốt. Các doanh nghiệp được lựa chọn ĐVCN đã quan tâm đầu tư xây dựng, củng cố nhà xưởng, nâng cấp cơ sở vật chất, bảo dưỡng vận hành dây chuyền sản xuất ĐVCN đã được chuyển giao. Tiến hành sửa chữa vũ khí, trang bị cho Quân đội bảo đảm số lượng, chất lượng theo chỉ tiêu, nhiệm vụ được giao; năng lực công nghệ các dây chuyền được duy trì ổn định và từng bước được nâng cao, sẵn sàng động viên khi có lệnh. Công tác phối hợp hiệp đồng được tiến hành chặt chẽ và thống nhất. Các doanh nghiệp đã thực hiện nghiêm kế hoạch đề ra, bảo dưỡng, sửa chữa đúng, đủ số lượng, chất lượng và tổ chức nghiệm thu bàn giao sản phẩm theo đúng quy định. Tại Quân khu 1, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Bắc Giang đã phối hợp với Công ty TNHH một thành viên Cơ khí và Hóa chất Hà Bắc thường xuyên bảo dưỡng dây chuyền sửa chữa pháo. Trên địa bàn Quân khu 2, tỉnh Sơn La đã đầu tư xây dựng, củng cố nhà xưởng và bảo dưỡng, vận hành 2 dây chuyền ĐVCN. Đặc biệt, Công ty cổ phần Cơ khí Sơn La đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt doanh nghiệp đủ điều kiện ĐVCN. Tại địa bàn Quân khu 3, từ năm 2007 đến năm 2018, UBND tỉnh Ninh Bình đã tổ chức khảo sát, đăng ký, thống kê năng lực sản xuất, sửa chữa trang bị nhiều DNCN trên địa bàn; tổng hợp báo cáo Quân khu 3, Bộ Quốc phòng đối với 105 doanh nghiệp thuộc đối tượng điều chỉnh của Pháp lệnh làm cơ sở lựa chọn các doanh nghiệp có khả năng sản xuất, sửa chữa trang bị cho Quân đội. Đến nay, Ninh Bình đã tổ chức đầu tư xây dựng, củng cố nhà xưởng, bảo dưỡng, vận hành 2 dây chuyền ĐVCN được chuyển giao; sản xuất, nghiệm thu, bàn giao nhiều sản phẩm ĐVCN cho Bộ Quốc phòng. Tại địa bàn Quân khu 4, UBND tỉnh Nghệ An đã chỉ đạo các sở, ngành liên quan phối hợp, hướng dẫn các doanh nghiệp phát huy năng lực sản xuất. Điển hình là Công ty cổ phần Cơ khí ô tô Nghệ An đã đầu tư hoàn chỉnh dây chuyền ĐVCN bảo dưỡng sửa chữa xe tăng; Công ty cổ phần Cơ khí Vinh xây dựng báo cáo đầu tư sản xuất vỏ đạn cối 81; Công ty cổ phần Cơ khí và Xây lắp 250 Phủ Quỳ được đầu tư dây chuyền công nghệ sản xuất vỏ lựu đạn, giàn phóng lựu đạn. Trên địa bàn Quân khu 7, Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai đã chỉ đạo Sở Công thương phối hợp với Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh hiệp đồng với các doanh nghiệp sản xuất thân lựu đạn, giàn phóng lựu đạn và được tổng lắp, lưu kho.

Bốn là, chú trọng hơn công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực tham gia dây chuyền ĐVCN. Các cơ quan, bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp đã nhận thức đúng về vị trí, vai trò của nguồn nhân lực trong thực hiện ĐVCN, tích cực, chủ động trong đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện chuyên môn cho lực lượng lao động ở các DNCN tham gia ĐVCN. Nhiều địa phương đã quan tâm, tạo điều kiện, nhất là về kinh phí để tổ chức các lớp bồi dưỡng, huấn luyện chuyên môn cho người lao động tham gia dây chuyền ĐVCN đảm bảo sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ khi có tình huống xảy ra, đáp ứng nhu cầu sản xuất, sửa chữa trang bị bảo đảm cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Với sự vào cuộc đồng bộ của các cấp, các ngành, đến nay về cơ bản nguồn nhân lực ở các doanh nghiệp ĐVCN đã bước đầu đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trên giao.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện Pháp lệnh ĐVCN vẫn còn những hạn chế, bất cập, đó là: Một số quy định trong Pháp lệnh không còn phù hợp, thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành hoặc chồng chéo với Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách cũng như các văn bản liên quan về quản lý, huy động các DNCN phục vụ cho nhiệm vụ QP-AN. Việc phân cấp quản lý giữa bộ, ngành, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đối với doanh nghiệp thuộc đối tượng ĐVCN chưa cụ thể. Mặt khác, số lượng DNCN được khảo sát, lựa chọn để thực hiện nhiệm vụ chuẩn bị ĐVCN còn ít so với số lượng thực tế trên toàn quốc. Tiềm năng, thế mạnh của công nghiệp quốc gia và của từng vùng, từng địa phương phục vụ cho nhiệm vụ quốc phòng chưa được đánh giá hết. Việc giao nhiệm vụ, chỉ tiêu ĐVCN cho các DNCN còn nhỏ lẻ, ngắn hạn, chưa đồng bộ, thiếu tính quy hoạch, kế hoạch. Số lượng các dây chuyền ĐVCN được triển khai xây dựng còn ít; sản phẩm ĐVCN chưa đa dạng. Đầu tư, nghiên cứu, thiết kế chế tạo và chuyển giao công nghệ sản xuất các sản phẩm mới, lĩnh vực mới chưa có tính đột phá. Công tác xây dựng, triển khai thực hiện chiến lược, kế hoạch, chính sách về ĐVCN còn một số bất cập, chưa theo kịp với tốc độ phát triển của xã hội. Hằng năm, ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác ĐVCN còn hạn hẹp; các chế độ, chính sách đối với DNCN thực hiện nhiệm vụ ĐVCN nhiều điểm chưa phù hợp. Một số doanh nghiệp chưa sẵn sàng tham gia thực hiện nhiệm vụ ĐVCN. Năng lực sửa chữa, bảo dưỡng của các doanh nghiệp thuộc phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh còn hạn chế; một số doanh nghiệp nhận thức chưa đúng, đủ trách nhiệm, nghĩa vụ ĐVCN; có sản phẩm chất lượng chưa cao, chỉ đáp ứng được các mặt hàng đơn giản. Một số doanh nghiệp thiết bị công nghệ sản xuất còn lạc hậu; kinh phí đầu tư đào tạo và đào tạo lại lực lượng lao động còn gặp nhiều khó khăn; còn bị chi phối nhiều vấn đề như vốn đầu tư, quy mô hoạt động sản xuất, sức cạnh tranh.

Để khắc phục những tồn tại trên, thời gian tới, cần thực hiện tốt một số nội dung sau:

Một là, thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của các cơ quan, ban, ngành, tổ chức và cá nhân trong thực hiện Pháp lệnh ĐVCN.

Các bộ, ngành chức năng và chính quyền các cấp phải thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, doanh nghiệp và toàn thể nhân dân về Pháp lệnh ĐVCN. Tuyên truyền, vận động mọi tầng lớp nhân dân, các tổ chức kinh tế - xã hội thực hiện tốt Luật Quốc phòng, Luật Nghĩa vụ quân sự, Pháp lệnh về lực lượng dự bị động viên, Pháp lệnh ĐVCN. Tiếp tục quán triệt các Nghị quyết của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân bằng các biện pháp, hình thức phong phú, phù hợp. Thường xuyên bồi dưỡng kiến thức QP-AN cho cán bộ, đảng viên theo chương trình, nội dung quy định nhằm tạo sự chuyển biến về nhận thức đối với công tác quân sự, quốc phòng nói chung và ĐVCN nói riêng. Xây dựng kế hoạch, chương trình, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương phải gắn kết chặt chẽ với quy hoạch phát triển tổng thể, quy hoạch vùng trên địa bàn về ĐVCN; kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với đầu tư dây chuyền ĐVCN, tạo nguồn lực mọi mặt để sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ ĐVCN.

Hai là, nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về nhiệm vụ ĐVCN.

Thực hiện tốt công tác quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước, thông qua các công cụ luật pháp và bộ máy tổ chức của Chính phủ với vai trò chủ chốt của Bộ Quốc phòng... Phát huy tốt vai trò của các cơ quan có trách nhiệm trong nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về ĐVCN. Đề cao trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, ban ngành, đoàn thể về nhiệm vụ ĐVCN. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý nắm chắc doanh nghiệp trên địa bàn, nhất là những doanh nghiệp đã được Chính phủ công nhận là doanh nghiệp ĐVCN. Quản lý tốt các DNCN có đủ khả năng sản xuất, sửa chữa trang bị phục vụ cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Cần xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cấp, các ngành trong thực hiện Pháp lệnh ĐVCN; coi trọng sự phối hợp giữa các ngành chức năng trong tham mưu đề xuất, nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về nhiệm vụ ĐVCN.

Ba là, huy động sự tham gia tích cực của các tổ chức, doanh nghiệp trong thực hiện nhiệm vụ ĐVCN. 

Tiếp tục đẩy mạnh thu hút đầu tư, phát triển sản xuất công nghiệp, thương mại, dịch vụ, tạo tiềm lực tại chỗ cho nhiệm vụ ĐVCN. Gắn nhiệm vụ quân sự, quốc phòng và công tác ĐVCN tại địa phương với đầu tư phát triển các ngành công nghiệp ngay từ khâu quy hoạch, xây dựng dự án đầu tư sản xuất công nghiệp. Các địa phương cần làm tốt việc cân đối đảm bảo ngân sách, kinh phí cho nhiệm vụ ĐVCN. Cơ quan quân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải tích cực đôn đốc, triển khai thực hiện Pháp lệnh ĐVCN một cách đồng bộ, thống nhất. Tăng cường kiểm soát tiềm lực của các DNCN, từng bước nâng cao chất lượng doanh nghiệp trong thực hiện ĐVCN. Nghiên cứu và mở rộng công tác ĐVCN, xây dựng một số dự án trọng điểm nhằm đa dạng sản phẩm và chủng loại, phù hợp với khu vực phòng thủ trên địa bàn và nhu cầu trang bị quốc phòng.

Bốn là, các đơn vị, doanh nghiệp cần quan tâm hơn nữa đến công tác quản lý, duy trì và thường xuyên bảo dưỡng các dây chuyền sản xuất sản phẩm ĐVCN.

Các đơn vị, doanh nghiệp phải thường xuyên duy trì sản xuất, bảo dưỡng, bảo quản, nâng cấp cơ sở hạ tầng, quản lý tốt hồ sơ, cơ sở vật chất đối với các dây chuyền ĐVCN đã được chuyển giao. Tiếp tục đầu tư, đổi mới công nghệ sản xuất, duy trì nâng cao năng lực sửa chữa, bảo dưỡng trang, thiết bị quốc phòng theo hướng hiện đại. Chủ động đầu tư các dây chuyền, công nghệ tiên tiến của thế giới để sản xuất, sửa chữa các sản phẩm có chất lượng cao phục vụ nhu cầu dân sinh, xuất khẩu. Mở rộng liên doanh, liên kết với các công ty sản xuất trong và ngoài nước để đa dạng hóa sản phẩm nhằm không ngừng nâng cao giá trị thu nhập của doanh nghiệp.

Năm là, các cơ quan chức năng tiếp tục rà soát, khảo sát và lựa chọn doanh nghiệp đủ điều kiện ĐVCN trong mọi tình huống.

Các cấp, các ngành và địa phương phải thường xuyên quan tâm và làm tốt hơn nữa công tác rà soát, thống kê, quản lý năng lực sản xuất, sửa chữa của toàn bộ DNCN thuộc đối tượng điều chỉnh của Pháp lệnh. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành trực thuộc Trung ương chỉ đạo các sở, ban, ngành trên địa bàn để tăng cường phối hợp trong khảo sát, đánh giá thực chất, chi tiết năng lực sản xuất, sửa chữa trang bị cho Quân đội theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Thành lập đoàn khảo sát, xây dựng kế hoạch, hướng dẫn doanh nghiệp được khảo sát tiến hành tự kê khai năng lực sản xuất, sửa chữa. Kết quả khảo sát phải đánh giá đúng được thực chất khả năng sửa chữa, bảo dưỡng của doanh nghiệp; chuẩn bị đầy đủ các điều kiện đễ sẵn sàng huy động, di chuyển dây chuyền, công nghệ sản xuất phục vụ nhiệm vụ quân sự, quốc phòng trong mọi tình huống. 

Sáu là, quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế và bảo đảm kịp thời chế độ, chính sách cho doanh nghiệp, người lao động trong thực hiện nhiệm vụ chuẩn bị ĐVCN.

Quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho các DNCN mở rộng sản xuất. Giải quyết tốt chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ theo Pháp lệnh quy định, nhất là chế độ chính sách đối với các doanh nghiệp được phê duyệt giao nhiệm vụ sản xuất, sửa chữa trang bị cho Quân đội... Nghiên cứu và có cơ chế, chính sách ưu đãi về vốn, thuế đối với các doanh nghiệp ĐVCN sản xuất các trang thiết bị phục vụ nhu cầu QP-AN.

Bảy là, thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra đối với địa phương, đơn vị, doanh nghiệp trong triển khai thực hiện Pháp lệnh ĐVCN.

Cấp ủy, chính quyền các cấp cần phải quan tâm và tạo điều kiện tốt nhất về môi trường, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội để các doanh nghiệp yên tâm sản xuất, sửa chữa và kinh doanh. Thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra đối với địa phương, đơn vị, doanh nghiệp trong triển khai thực hiện Pháp lệnh ĐVCN nhằm đáp ứng yêu cầu tự lực, tự cường, gắn kinh tế với QP-AN, sẵn sàng động viên phục vụ nhiệm vụ quân sự, quốc phòng trong tình hình mới.

Đại tá, TS. HOÀNG VĂN PHAI

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại