Tiếp cận phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh

7/31/2019 10:03:22 AM
0:00:00
Giọng Nữ
Lượt xem: 5

CNQP&KT - Phong cách Hồ Chí Minh là một phạm trù rộng, thể hiện ở năng lực tư duy thiên phú, cách nghĩ, cách làm độc lập, sáng tạo, lối ứng xử nhân văn và văn hóa. Phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh hình thành và phát triển trên cơ sở phong cách tư duy của Người.

Nét nổi bật trong phong cách tư duy của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo. Theo Người, độc lập là không lệ thuộc, không phụ thuộc, không bắt chước, theo đuôi, giáo điều. Tự chủ là chủ động suy nghĩ và làm chủ suy nghĩ của mình, tự chịu trách nhiệm trước dân, trước nước, biết làm chủ bản thân và công việc. Sáng tạo là vận dụng đúng quy luật chung cho phù hợp với cái riêng, cái đặc thù; đồng thời, cũng là tìm tòi, đề xuất những cái mới để có thể trả lời được những câu hỏi của cuộc sống đặt ra. Bằng phương pháp tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lãnh đạo, chỉ đạo cuộc chiến tranh nhân dân chưa hề có trong lịch sử quân sự thế giới. Nhờ đó, đã làm nên thắng lợi có ý nghĩa thời đại, làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân cũ và mở đầu sự thất bại của chủ nghĩa thực dân mới trên phạm vi thế giới.

Phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh hình thành và phát triển trên cơ sở phong cách tư duy của Người. Vì vậy, phong cách tư duy đó có những nét đặc trưng chung của phong cách tư duy “độc lập, tự chủ, sáng tạo”, đồng thời bao gồm những đặc điểm riêng có tính hệ thống, ổn định, được xây dựng trên cơ sở tư duy và phương pháp quân sự của Người.

Cần phải nhấn mạnh rằng, phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh được hình thành và ảnh hưởng sâu sắc từ tư duy quân sự truyền thống Việt Nam. Truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc ta là kiên cường, bất khuất, dũng cảm, thông minh, sáng tạo... những yếu tố đó được đúc kết qua mấy nghìn năm chống ngoại xâm. Truyền thống đó chứng tỏ dân tộc Việt Nam có tinh thần “thượng võ” nhưng không phải hiếu chiến, mà là dân tộc yêu chuộng hòa bình, luôn mong muốn đất nước hòa bình, độc lập. Phải dụng binh, cầm súng chiến đấu là vì đại nghĩa, để cứu dân, cứu nước, đó là yêu cầu khách quan, không có con đường nào khác.

Nghệ thuật quân sự Việt Nam từng bước được hình thành và phát triển qua nhiều thế hệ, trong quá trình dựng nước và giữ nước. Đến thời đại Hồ Chí Minh, nghệ thuật đó đã đạt đến đỉnh cao. Có thể khái quát nghệ thuật đó như sau: Toàn dân đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang làm nòng cốt; quán triệt tư tưởng tiến công; giành, giữ quyền chủ động; phát huy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân; lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ đánh lớn, đồng thời biết tập trung lực lượng khi cần thiết; dùng cả lực và thế, phát huy cao nhất khả năng của thế trong việc kết hợp với lực tạo sức mạnh lớn...

Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong lĩnh vực quân sự, đã nhiều năm làm việc trực tiếp với Người, nêu rõ: “Di sản quân sự oanh liệt, độc đáo và phong phú của dân tộc ta, trải qua các cuộc khởi nghĩa, chiến tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc mang tính nhân dân suốt hơn 2.000 năm chống phong kiến phương Bắc xâm lược đã được Người kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo trong điều kiện mới”1. Thực tiễn chiến tranh cách mạng ở nước ta đã chứng tỏ phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh bắt nguồn từ những tinh hoa quân sự Việt Nam. Còn Thượng tướng, Giáo sư Hoàng Minh Thảo cũng từng viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Người kế thừa truyền thống đấu tranh giữ nước của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa quân sự Đông - Tây kim cổ để tìm ra cách đánh phù hợp, giành thắng lợi cho cuộc chiến tranh cách mạng của dân tộc”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Chính phủ bàn kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954 và mở Chiến dịch Điện Biên Phủ  (12/1953).                                                                                       Ảnh: TL

Có thể nói, tư tưởng, lý luận và phong cách tư duy quân sự của các nhà kinh điển đã được Hồ Chí Minh tiếp thu cùng với quá trình nghiên cứu, học tập Học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đối với Hồ Chí Minh, nghiên cứu tiếp thu lý luận quân sự mác-xít không phải với mục đích trở thành nhà quân sự, mà vì yêu cầu của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc. Người chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng quân sự và phong cách tư duy quân sự của các nhà kinh điển, đặc biệt là Lênin. Những vấn đề này biểu hiện trong các bài nói, bài viết, qua việc huấn luyện cán bộ và chỉ đạo hoạt động quân sự của Người. Người đã viết các tác phẩm: “Con đường giải phóng” (năm 1940); “Cách đánh du kích” (4 tập 1941-1944); “Kinh nghiệm du kích Tầu”; “Kinh nghiệm du kích Nga”; dịch và giới thiệu “Binh pháp của ông Tôn Tử” (năm 1945)... làm tài liệu huấn luyện cán bộ. Tư duy quân sự và phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh còn được thể hiện trong thực tiễn chỉ đạo khởi nghĩa và chiến tranh, ở các hoạt động quân sự phong phú, sáng tạo của biết bao học trò của Người.

Với kinh nghiệm chính trị dày dặn, tư duy quân sự sắc bén, ngay từ mùa Xuân năm 1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói với đồng chí Phùng Thế Tài, lúc này là Phó tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, lời dự báo: “Sớm muộn đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B-52 ra ném bom Hà Nội rồi có thua mới chịu thua. Chú nên nhớ trước khi đến Bàn Môn Điếm ký hiệp định đình chiến ở Triều Tiên, Mỹ đã cho không quân hủy diệt Bình Nhưỡng. Ở Việt Nam, Mỹ nhất định thua, nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội”2

Nhìn lại phương pháp và nội dung huấn luyện quân sự, các tác phẩm quân sự do Người viết và dịch cũng như sự chỉ dẫn của Người về lãnh đạo, chỉ huy quân sự cho cán bộ Đảng, Nhà nước, Quân đội, có thể thấy, Hồ Chí Minh đã kế thừa rõ nét tư duy quân sự và phong cách tư duy quân sự của các nhà Mác-xít. 

Nghiên cứu về phong cách tư duy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đó có tư duy quân sự, có thể nhận thức sâu sắc một điều: Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo là của một người có lòng yêu nước nhiệt thành, sâu sắc, động cơ cách mạng trong sáng kết hợp với trí tuệ uyên bác; đồng thời, tư duy Hồ Chí Minh luôn xuất phát từ thực tiễn, được rọi sáng từ phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.

Hiện nay, khi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang nỗ lực thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, thì việc học tập và làm theo phong cách Hồ Chí Minh, trong đó có phong cách tư duy quân sự, có ý nghĩa rất to lớn. Học tập, làm theo phong cách Hồ Chí Minh, nhiều cán bộ, đảng viên trong Quân đội đã trở thành những người tiền phong gương mẫu được quần chúng tin tưởng, yêu mến, quý trọng. Khi mỗi cán bộ, đảng viên luôn biết tự rèn luyện, học tập, không ngừng hoàn thiện về phẩm chất và nhân cách, thì nhất định điều tốt sẽ được nhân lên, những thiếu sót, khuyết điểm, sai lầm sẽ được ngăn chặn và khắc phục.

Năng lực tư duy, phong cách làm việc khoa học, gần gũi với với nhân dân, với cán bộ, chiến sĩ dưới quyền, là bộ phận quan trọng cấu thành phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến dịch, chiến lược. Phong cách tuy mang dấu ấn cá nhân nhưng đồng thời cũng có ảnh hưởng và sức lan toả lớn. Vì vậy, học tập và làm theo phong cách Hồ Chí Minh, phấn đấu trở thành cán bộ, đảng viên có “tâm”, “tầm”, “trí” là một yêu cầu cấp thiết trong xây dựng Đảng, trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Từ việc nghiên cứu phong cách tư duy quân sự Hồ Chí Minh, soi vào thực tiễn hoạt động của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Quân đội hiện nay, bên cạnh đại đa số cán bộ, đảng viên có tư duy và phong cách làm việc độc lập, sáng tạo, vẫn còn không ít cán bộ, đảng viên chưa đủ tâm, đủ tầm so với yêu cầu nhiệm vụ. Do đó, cần có những giải pháp hữu hiệu nhằm không ngừng nâng cao phẩm chất chính trị và trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Một trong những biện pháp đó là phải học tập và làm theo phong cách Hồ Chí Minh, mà trước hết là phong cách tư duy quân sự. Theo đó, người cán bộ, đảng viên trong Quân đội cần tự giác học tập, làm theo phong cách tư duy, phong cách làm việc của Hồ Chí Minh. Việc tự học phải kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu trong sách, tài liệu, hệ thống các kênh thông tin với hoạt động thực tiễn, từ kinh nghiệm của các tướng lĩnh lãnh đạo, chỉ huy tác chiến. “Học ở sách vở, học lẫn nhau và học trong nhân dân. Không học trong nhân dân là một thiếu sót lớn”3. Đồng thời, phải luôn chú ý việc bám nắm cơ sở, gần gũi, gắn bó với cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên, người lao động trong các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp quân đội. Đối với cán bộ, đảng viên cấp chiến lược, càng tăng cường xuống cơ sở, càng hiểu cấp dưới, càng rút ra được những điều bổ ích để tham mưu, đề xuất, xây dựng các chủ trương, chính sách, quyết định sát đúng, phù hợp với thực tiễn, tạo chuyển biến mới đối với mỗi cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và toàn quân.

Đại tá, TS. NGUYỄN TIẾN HẢI

Học viện Chính trị

 -------------------------------------

Tài liệu tham khảo:

1,2. Tư duy nghệ thuật quân sự Võ Nguyên Giáp, Tạp chí Văn hiến, 2018.

3. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, HN. 1995.

Gửi bình luận thành công

Gửi bình luận thất bại